image banner
Tội phạm tham nhũng ngoài nhà nước theo pháp luật hình sự Việt Nam và sự tương thích với pháp luật Quốc tế
Tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước ngày càng diễn biến tinh vi, phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế quốc gia. Để việc thực thi pháp luật có hiệu quả hơn, tiệm cận gần với pháp luật quốc tế trong bối cảnh hiện nay thì việc hoàn thiện về pháp luật tham nhũng ở khối kinh tế tư nhân là cần thiết, như việc mở rộng hành vi phạm tội trong tội nhận hối lộ; truy cứu trách nhiệm hình sự với đối với pháp nhân thương mại thực hiện các hành vi tham nhũng...

         Tham nhũng đã và đang trở thành vấn nạn toàn cầu, không chỉ được thực hiện bởi những người quản lý, có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, mà còn xuất hiện ngày càng nghiêm trọng, nguy hiểm tại khu vực ngoài nhà nước hay tham nhũng trong lĩnh vực tư thường xảy ra trong lĩnh vực gắn liền với hoạt động thương mại, ngân hàng, tài chính. Hành vi có thể thấy như người được giao nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong quản lý tài sản ( tiền, hàng hóa, cơ sở vật chất..) đã lợi dụng quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản đó ( chiếm đoạt tiền các đại lý mà họ quản lý..) hoặc cố tình tạo ra cơ chế thiếu minh bạch trong hoạt động vay vốn, thu hồi nợ của ngân hàng để chiếm đoạt hay biển thủ tiền quỹ từ đóng góp của người dân ( một số nhân viên ngân hàng, kho bạc, quỹ tín dụng lợi dụng chức vụ quyền hạn được giao để mua chứng khoán  hoặc cho vay lại với lãi suất cao hơn, khi bị thua lỗ, lừa đảo thì mất khả năng trả nợ, gây thiệt hại lớn)...Tham nhũng trong lĩnh vực tư không những ảnh hường tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế, dẫn đến thiếu niềm tin vào tính minh bạch của nền kinh tế hành chính quốc gia từ các nhà đầu tư, mà còn làm tăng chi phí gây thất thoát cho doanh nghiệp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân.

  1. Pháp luật quốc tế về tội phạm tham nhũng ngoài Nhà nước

Việt Nam đã ký Công ước Liên hiệp Quốc về chống tham nhũng (UNCAC) ngày 09/12/2003 và chính thức phê chuẩn Công ước này vào ngày 12/11/2009. Bên cạnh đó, có một số văn bản quốc tế liên quan đến phòng, chống tham nhũng mà Việt Nam đã tham dự: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái bình Dương (CPTPP) năm 2018; Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu- EU (EVFTA) năm 2016[1]... Các quốc gia tham gia các hiệp định trên đều cam kết phòng, chống tham nhũng thông qua việc ngăn ngừa tham nhũng trong thương mại và đầu tư thúc đẩy minh bạch trong các giao dịch công, bảo vệc người tố cáo và tăng cường hợp tác quốc tế để phát hiện, xử lý tham nhũng.

Công ước UNCAC có những quy định để nhận diện được tội phạm tham nhũng ngoài nhà nước qua các đặc điểm cơ bản sau: 

            Thứ nhất, về chủ thể của tội phạm tham nhũng ngoài Nhà nước. Chủ thể của tội phạm tham nhũng được  xác định trước hết phải là “ công chức” và khái niệm công chức trong phạm vi điều chỉnh công ước UNCAC là đối tượng toàn diện bao gồm 02 đối tượng : Công chức của quốc gia và công chức làm việc tại các tổ chức quốc tế công[2]. Khái niệm “Công chức” của công ước UNCAC mang tính toàn diện, bao gồm cả công chức ở lĩnh vực công và lĩnh vực tư như: Đối với hành vi nhận hối lộ và  tham ô tài sản trong lĩnh vực tư thì chủ thể của tội phạm có thể là người điều hành hay làm việc, ở bất kỳ cương vị nào, cho tổ chức thuộc khu vực tư[3]

Ngoài ra, Điều 26 Công ước UNCAC quy định: “ Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với các nguyên tắc pháp luật của mình, để quy định trách nhiệm của pháp nhân về việc tham gia vào các tội phạm được quy định theo Công ước này”. Điều này đồng nghĩa với việc UNCAC xác định chủ thể của tội phạm tham nhũng ngoài nhà nước có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Tuy nhiên, đối với pháp nhân, UNCAC có quy định mang tính mở hơn, đó là tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia để xác định có phải chủ thể của tội phạm tham nhũng ngoài nhà nước hay không. Trên cơ sở quy định của Công ước UNCAC, “ pháp luật hình sự của nhiều nước trên thế giới đã quy định trách nhiệm hình sự về tội phạm tham nhũng của pháp nhân trong lĩnh vực tư như Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Australia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Vương Quốc Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha...Trong khu vực châu Á, một số quốc gia cũng đã nghi nhận trách nhiệm hình sự về tội phạm tham nhũng của pháp nhân trong lĩnh vực tư như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore”[4]

          Thứ hai, về hành vi khách quan của tội phạm tham nhũngngoài nhà nước.

UNCAC đã quy định về các hành vi sau đây để nhận diện tội phạm tham nhũng ngoài nhà nước:

- Hành vi hối lộ thương mại: Có thể thực hiện ở hai dạng sau[5]: (1) người đưa hối lộ chủ động thực hiện “hành vi hứa hẹn, chào mời hay cho một lợi ích không chính đáng, trực tiếp hay gián tiếp cho người điều hành hay làm việc, ở bất kỳ cương vị nào, cho tổ chức thuộc khu vực tư vì lợi ích của chính người đó hay của người hoặc tổ chức khác, để người đó vi phạm nhiệm vụ của mình bằng cách làm hoặc không làm một việc gì”. Kiểu hối lộ này phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiện nay và nó trở thành một vấn đề nhức nhối trong lĩnh vực  kinh tế tư nhân ở nhiều quốc gia, ảnh hưởng xấu đến tính cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế, gây thiệt hại cho xã hội, Công ước quy định khi thực hiện hành vi hối lộ, người thực hiện hành vi muốn đạt được những “lợi ích không chính đáng” (undue advantage)[6]. Những lợi ích này có thể là tiền hoặc các loại lợi ích khác, có thể là lợi ích hữu hình hoặc lợi ích vật chất hoặc phi vật chất, cho bản thân hoặc cho người thứ ba hay cho cả tập thể; (2) Người nhận hối lộ thương mại chủ động “ đòi hoặc nhận trực tiếp hay gián tiếp lợi ích không chính đáng bởi người điều hành hay làm việc, ở bất kỳ cương vị nào, cho tổ chức thuộc khu vực tư vì lợi ích của bản thân người đó hay của người khác để vi phạm nhiệm vụ của mình bằng cách làm hay không làm một việc gì”. Đây có thể hiểu là trường hợp đề nghị hối lộ nhưng không được chấp nhận; tuy nhiên, người nhận hối lộ lại cung cấp kiến thức, thông tin mà nó là yếu tố tạo thành hành vi phạm tội tham nhũng suy đoán từ hoàn cảnh thực. 

 - Hành vi lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi[7]: Thực tế, các nhân viên kinh doanh thường có những hành vi đưa hoặc nhận hối lộ để đổi lấy thông tin bí mật dưới nhiều hình thức đưa hối lộ khác nhau ( điển hình như một số dạng thông tin bí mật là cơ sở để thực hiện các giao dịch chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu của một công ty), hoặc trao đổi thông tin bí mật của khách hàng để nhận lại một lợi ích hay thông tin bí mật khác. Hành vi này có thể cấu thành tội “hối lộ trong khu vực tư nhân (bribery in private sector).

          Hành vi lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi có thể thực hiện như sử dụng tài sản, lợi ích vật chất để một người có tầm ảnh hưởng đến hoạt động của một cơ quan, tổ chức có lời nói, hành vi tác động gây ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đó. Công ước UNCAC đề cập đến hai dạng hành vi xác định thuộc tội này, bao gồm: (1) Hành vi hứa hẹn, chào mời hay cho, trực tiếp hay gián tiếp, công chức hoặc người khác một lợi ích không chính đáng để công chức hay người đó dùng ảnh hưởng thực sự hay giả định của mình nhằm đạt được  từ một cơ quan công quyền của quốc gia thành viên một lợi ích không chính đáng cho chính bản thân người có hành vi hứa hẹn, tặng hay cho nói trên hoặc cho người khác; (2) Hành vi của công chức hay người khác, trực tiếp hay gián tiếp đòi hoặc cho bản thân mình hoặc cho người khác, để lợi dụng ảnh hưởng thực sự hay giả định của mình nhằm đạt được từ một cơ quan hành chính hay một cơ quan công quyền của quốc gia thành viên một lợi ích không chính đáng. Như vậy, bản chất của tội phạm này là trao cho công chức hoặc người khác “một lợi ích không chính đáng” (undue advantage) để gây ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định hành chính theo quyền hạn, chức năng có thật hoặc chỉ là giả định của họ.

- Hành vi biển thủ tài sản trong lĩnh vực tư: Đối với hành vi tham ô tài sản được thực hiện bởi công chức, quy định tại Điều 17 Công ước UNCAC là một tội phạm trong lĩnh vực công. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tư xác định “ người điều hành hay làm việc, bất kỳ cương vị nào, cho tổ chức thuộc khu vực tư biển thủ tài sản, quỹ tư hoặc chứng khoán hoặc bất cứ thứ gì khác có giá trị mà người này được giao quản lý do vị trí của mình, nếu hành vi biển thủ đó được thực hiện một cách cố ý trong quá trình hoạt động kinh tế, tài chính hoặc thương mại”[8]. Bản chất đây là hành vi tham ô trong lĩnh vực tư được thực hiện bởi chủ thể được giao quản lý giá trị vật chất bao gồm tài sản, quỹ hoặc chứng khoán hoặc bất kỳ thứ nào khác có giá trị. Đây là hành vi tương tự như tham ô tài sản.

 Ngoài ra, Điều 23 Công ước UNCAC còn đề cập đến hành vi tẩy rửa tài sản do phạm tội mà có. Theo đó, bao gồm các hành vi: (1) “chuyển đổi tài sản” (asset transfer) là hành vi chuyển nhượng, chuyển giao hoặc chuyển đổi tài sản thu được bất hợp pháp từ hành vi tham nhũng, bao gồm việc chuyển tài sản ra ngoài biên giới hoặc chuyển đổi tài sản này thành những tài sản hợp pháp khác để tránh sự truy cứu pháp lý: (2) “tẩy rửa tài sản” (asset cleaning) được hiểu là hành vi hợp pháp hóa hoặc che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản thu được từ tham nhũng. Công ước cũng khuyến cáo rằng, mỗi quốc gia thành viên sẽ cố gắng tội phạm hóa các hành vi nêu trên ở phạm vi rộng nhất.

          Thứ ba, về lỗi khi thực hiện tội phạm tham nhũng ngoài nhà nước.

          Đa số các tội được thực hiện với lỗi cố ý, bản thân chủ thể thực hiện hành vi của mình là trái pháp luật hoặc đối với những chủ thể tiếp nhận hành vi tham nhũng là đã gián tiếp nhận những hành vi phạm pháp đó. Động cơ của loại tội phạm này thường là lợi dụng sự ảnh hưởng, quyền lực của cá nhân hay tổ chức để đạt được mục đích. Mục đích của chủ thể phạm tội thường là đạt được những lợi ích không chính đáng cho cá nhân hay tập thể. Lỗi cố ý của tội phạm không được nêu rõ và trực tiếp trong tất cả các điều khoản của Công ước UNCAC. Tuy nhiên, thông qua các điều luật như Điều 15, Điều 16, Điều 21 cho thấy rằng, các hành vi tham nhũng phải được thực hiện có ý thức, có mục đích và cố ý, tức là các chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng phải có ý định thu lợi bất hợp pháp khi thực hiện hành vi của mình. Các yếu tố này phản ánh về lỗi cố ý khi thực hiện tội phạm của chủ thể phạm tội.

          Như vậy, có thể thấy tội phạm tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước được quy định trong pháp luật nhiều quốc gia trên cơ sở Công ước UNCAC. Với cam kết nội luật hóa quy định của UNCAC, Việt Nam đã có Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (viết tắt là BLHS năm 2015), Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 và một số văn bản pháp lý có giá trị khác.

          2. Sự tương thích của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm tham nhũng ngoài nhà nước

          Thông qua BLHS năm 2015, Việt Nam đã nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế về tội phạm tham nhũng ngoài nhà nước phù hợp với đặc thù điều kiện kinh tế, chính trị, an ninh, văn hóa, xã hội của Việt Nam.

          Thứ nhất, về chủ thể của tội phạm tham nhũng ngoài nhà nước.

          Bộ luật hình sự năm 2015 đã mở rộng khái niệm tội phạm chức vụ không chỉ trong lĩnh vực công mà cả trong lĩnh vực ngoài Nhà nước. Theo đó, mở rộng chủ thể thực hiện tội phạm không chỉ là người có chức vụ trong khi thực hiện “công vụ” (đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống các cơ quan nhà nước), mà còn là người có chức vụ trong khi thực hiện “nhiệm vụ” ( tại các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước). Với quy định này, các tội phạm tham nhũng đã tiệm cận gần hơn với quy định của UNCAC.

          Thứ hai, về hanh vi khách quan của tội phạm tham nhũng ngoài nhà nước.

          Bộ luật hình sự năm 2015 giới hạn phạm vi các tội phạm về tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước đối với 04 tội danh: Tham ô tài sản (Điều 353), Tội nhận hối lộ (Điều 354), Tội đưa hối lộ (Điều 364) và tội mô giới hối lộ (Điều 365).

  • Về hành vi tham ô tài sản:

Hành vi tham ô tài sản là một trong những biểu hiện điển hình của tội phạm tham nhũng ngoài nhà nước, đây là hành vi chiếm đoạt tài sản, được thực hiện một cách công khai hoặc bí mật. Tài sản bị chiếm đoạt được quy định phải là tài sản mà người phạm tội có trách nhiệm quản lý (người phạm tội có quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản đó). Quy định này tại điều 353 BLHS năm 2015 tương tự như quy định của Công ước UNCAC về tội tham ô tài sản đã phân tích  ở trên. Thông thường, để che giấu hành vi chiếm đoạt, người phạm tội thường có hành vi sửa chữa sổ sách, chứng từ, lập chứng từ giả, tạo hiện trường giả, tiêu hủy hóa đơn, chứng từ...Trên thực tế các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước được diễn ra dưới nhiều hình thức như: Biển thủ tiền, tài sản của doanh nghiệp do minh trực tiếp quản lý; thu lợi bất chính thông qua thỏa thuận nâng giá nguyên liệu, sản phẩm, dịch vụ đầu vào với các đối tác kinh doanh, thu lợi bất chính thông qua các hợp đồng, thỏa thuận cung ứng cung cấp dịch vụ, hàng hóa hoặc thông đồng trong hoạt động đấu thầu...

  • Về hành vi nhận hối lộ:

Hành vi nhận hội lộ được hiểu là hành vi của một người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất, phi vật chất khác dưới dạng bất kỳ hình thức nào cho chính bản thân người đó hoặc cho người khác hoặc cho tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hay theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Thủ đoạn khi thực hiện hành vi nhận hối lộ là lợi dụng chức vụ quyền hạn, tức là người phạm tội sử dụng quyền hạn được giao như là một phương tiện phạm tội để thực hiện hành vi nhận hối lộ. Hành vi nhận hối lộ được thực hiện qua hai hành vi khách quan, bao gồm: (1) Hành vi nhận tiền, tài sản, lợi ích khác dưới hình thức trực tiếp hoặc qua trung gian; (2) Hành vi làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của mình vì lợi ích hoặc yêu cầu của  người đưa hối lội. Hành vi thứ hai có thể được thực hiện trước hoặc sau để người thực hiện đạt được mục đích. Về cơ bản quy định tại điều 354 BLHS năm 2015 đã thể hiện đầy đủ nội dung và có tính tương thích cao với hành vi lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi tại Điều 18 Công ước UNCAC. Việc nhận hối lội không chỉ giới hạn với những người có chức vụ, quyền hạn trong phạm vi Nhà nước hay ngoài nhà nước mà có sự đan xen với nhau.

  • Về hành vi đưa hối lộ:

        Đưa hối lộ là hành vi dùng tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất trực tiếp hoặc qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn, hoặc tổ chức khác để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lội. Theo quy định của điều 356 BLHS năm 2015, một hành vi bị coi là hối lộ khi giá trị của hối lộ từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc các giá trị phi vật chất khác ( như tình dục, vị trí, việc làm...) Hành vi ở đây được thể hiện dưới hình thức đã đưa hoặc sẽ đưa trực tiếp hoặc qua trung gian.

Nhằm góp phần tạo căn cứ pháp lý, đảm bảo tính minh bạch, tăng cường tính cạnh tranh lành mạnh đối với các hoạt động kinh doanh quốc tế, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định về hành vi và trách nhiệm  hình sự đối với hành vi đưa hối lội cho công chức nước ngoài, công chức quốc tế công tại khoản 6 Điều 364 như sau: “Người nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại điều này”. Với việc bổ sung điều khoản này, BLHS năm 2015 đã tiệm cận sát hơn với quy định của Đièu 21 UNCAC về hành vi đưa hối lộ.

  • Hành vi mô giới hối lộ: 

Như đã phân tích ở trên, hành vi đưa hối lộ và nhận hối lộ có thể được thực hiện trực tiếp giữa các bên nhưng cũng có thể thực hiện gián tiếp qua bên trung gian, bên mô giới hối lộ. Một hành vi được coi là mô giới hối lộ khi giá trị của việc hối lộ từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc các loại giá trị phi vật chất khác.

Hành vi mô giới hối lộ được biểu hiện rất đa dạng như: Tổ chức cho hai bên gặp mặt để thỏa thuận về việc hối lộ; chuyển lời đề nghị của bên này cho bên kia và ngược lại; Chuyển của hối lộ từ người này sang cho người nhận. Bản chất của hành vi này là giúp sức cho hai bên đưa hoặc nhận hối lộ. Việc quy định cụ thể về hành vi mô giới hối lộ của BLHS năm 2015 là điểm nổi bật của pháp luật Việt Nam so với Công ước UNCAC. Theo quy định của Công ước thì hành vi mô giới hối lộ không được nhắc đến một cách trực tiếp và cụ thể. Điều này cho thấy pháp luật Việt Nam không chỉ tiếp thu một cách thụ động các quy tắc của Công ước, mà tiếp thu có chọn lọc và phát triển từ các nội dung cốt lõi của Công ước.

Nhìn chung, các quy định đã có sự bao quát về các hành vi tham nhũng ngoài nhà nước, mô tả cơ bản đầy đủ các hành vi, đồng thời phản ánh đúng các cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các quy định của công ước UNCAC về phòng, chống tham nhũng. Có thể thấy pháp luật hình sự Việt Nam đã có bước đột phá trong quá trình hội nhập với luật pháp quốc tế, tạo cơ sở pháp lý về hình sự đối với các tội phạm tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước. Tuy nhiên BLHS năm 2015 vẫn cần sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng nói chung và tham nhũng trong lĩnh vực tư nói riêng để làm lành mạnh, minh bạch các quan hệ kinh tế, tạo môi trường đầu tư kinh doanh, hợp tác hợp pháp, bền vững, cùng phát triển.

            3. Một số vấn đề đặt ra

          Một là, hoàn thiện các quy định của BLHS năm 2015 về tội phạm tham nhũng ngoài Nhà nước để phù hợp với thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này tại Việt Nam và tương thích với quy định của pháp luật quốc tế, cụ thể:

  • Mở rộng hành vi phạm tội trong Tội nhận hối lộ:

          Theo khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015, Tội nhận hối lộ mới chỉ quy định về hành vi người lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào. Tức là người nhận hối lộ bị động trong việc “nhận” do có người “đưa” hối lộ. Tuy nhiên, đối chiếu với quy định của Công ước UNCAC thì ngoài hai hình thức này, còn có hành vi chủ động “đòi” một lợi ích bất chính cho bản thân hay cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc trong quá trình thi hành nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền hạn, tương tự như trên, tại Chương 26 Hiệp định CPTPP cũng đưa ra yêu cầu các bên tham gia hiệp định phải xử lý hình sự các hành vi đưa hối lộ công chức và hành vi “đòi” hoặc nhận hối lộ của công chức, bất kể đó là công chức Nhà nước, công chức nước ngoài hay công chức của tổ chức Quốc tế.

            Như vậy, so với quy định của pháp luật quốc tế thì hành vi nhận hối lộ trong BLHS năm 2015 có hình thức biểu hiện hẹp hơn. Trên thực tế, tại Việt Nam, trường hợp chủ thể lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thực hiện hành vi “đòi” lợi ích bất chính nào đó để làm hoặc không làm một việc trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ thì không bị xử lý về Tội nhận hối lộ đã tạo nên “lỗ hổng” lớn cho công tác phòng, chống tham nhũng. Do đó, Tội nhận hối lộ cần bổ sung hành vi này để có cơ sở pháp lý sự “nhũng nhiễu” của người có chức vụ, quyền hạn khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ, kể cả trong lĩnh vực công hay lĩnh vực tư.

  • Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhận thương mại thực hiện các hành vi tham nhũng:

           Điều 76 BLHS năm 2015 đã có các quy định về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Tuy nhiên, trong các tội danh mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự thì không có các tội phạm tham nhũng. Điều này đồng nghĩa với việc, nếu một pháp nhân thương mại thực hiện các hành vi tham nhũng nói chung và các hành vi liên quan đến hối lộ nói riêng thỏa mãn các quy định về điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự tại Điều 75 BLHS năm 2015 thì cũng không bị coi là tội phạm. Trong khi đó, để đảm bảo môi trường kinh doanh minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, không để xảy ra ra hành vi đưa hối lộ nhằm đẩy nhanh tiến trình, thủ tục hoặc để “ mua cơ hội đầu tư, mua chính sách” làm mất cơ hội đầu tư, kinh doanh của các bên, thì hànhvi đưa hối lộ trong lĩnh vực tư cần được hình sự hóa. Điều này cũng phù hợp với cam kết của Việt Nam khi tham gia Hiệp định CPTPP và UNCAC. Theo đó, khoản 3 điều 26.7 Hiệp định CPTPP yêu cầu mỗi bên tham gia phải đảm bảo rằng pháp nhân phải chịu chế tài hình sự hoặc chế tài phi hình sự nhằm mục đích phong ngừa các hành vi này. Điều 26 Công ước UNCAC cũng đã đề cập đến việc xác định trách nhiệm của pháp nhân khi tham gia vào các tội phạm tham nhũng, cũng như việc áp dụng chế tài hình sự hoặc phi hình sự khi pháp nhân vi phạm.

            Hai là, xây dựng thiết chế chuyên trách phòng, chống tham nhũng ngoài Nhà nước. Việt Nam đã thành lập các cơ quan thực hiện chống tham nhũng như Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; các cơ quan Kiểm tra của Đảng, Thanh tra, Kiểm toán, Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Thi hành án, các cơ quan tư pháp trong Quân đội. Tuy nhiên, đó mới chỉ là các cơ quan thực hiện chống tham nhũng trong khu vực Nhà nước, còn đối với khu vực nhoài Nhà nước thì sự kiểm tra, rà soát chưa thực sự chặt chẽ. Thực tế cho thấy, cần xây dựng một luật riêng để phòng, chống tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước nhằm tách biệt với tham nhũng trong lĩnh vực công. Việc này đòi hỏi cần có sự đánh giá nghiêm túc, toàn diện những tác động chính trị, kinh tế, xã hội của hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài Nhà nước để từ đó tiến hành hoàn thiện thể chế. Bên cạnh việc xây dựng một đạo luật chuyên trách để điều chỉnh lĩnh vực tham nhũng ngoài nhà nước, thì cũng cần có sự thành lập và tham gia của cơ quan chuyên trách trong lĩnh vực này để phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước tích cực kiểm tra, rà soát, hạn chế vấn nạn tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước.

          Ba là, thực hiện một số giải pháp nhằm phòng, chống tội phạm trong khu vực ngoài nhà nước. Phòng, chống tội phạm tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước là nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo tính minh bạch, công bằng, hướng tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc gia. Một số giải pháp thiết thực có thể kể đến như: Đào tạo và nâng cao nhận thức của công dân, tổ chức các chương trình đào tạo về đạo đức nghề nghiệp và luật pháp cho nhân viên và lãnh đạo, nhằm nâng cao ý thức chống tham nhũng. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy tính minh bạch, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp công khai thông tin tài chính và báo cáo hoạt động đình kỳ, tạo điều kiện cho công chúng và các bên liên quan giám sát.

          Ngoài ra, cần đảm bảo việc thực hiện cơ chế tố cáo khi phát hiện hành vi tham nhũng bằng cách thiết lập và thúc đẩy việc hoạt động của các đường dây nóng liên quan đến phòng, chống tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước để người dân và nhân viên có thể chủ động tố cáo hành vi tham nhũng mà không lo lắng đến vấn đề hoàn thiện pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi tham nhũng ngoài Nhà nước; đảm bảo thực thi các hình thức nghiêm minh nhất đối với các hành vi tham nhũng, đồng thời thực hiện các chính sách bảo vệ người tố cáo.


[1] Trong đó, Hiệp định CPTTP đưa ra những cam kết phòng, chống tham nhũng thông qua việc ngăn ngừa tham nhũng trong thương mại và đầu tư, thúc đẩy minh bạch trong các giao dịch công, đặc biệt là trong đấu thầu và cấp phép, nhấn mạnh việc bảo vệ người tố cáo tham nhũng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc báo cáo và xử lý các hành vi này. Thông qua các cam kết  về việc các bên không tham gia vào các hành vi tham nhũng trong các giao dịch thương mại và đầu tư, Hiệp định EVFTA yêu cầu các bên thiết lập các biện pháp phòng ngừa tham nhũng hiệu quả, đảm bảo minh bạch, đặc biệt là trong các hợp đồng công và đấu thầu, đồng thời bảo vệ người tố cáo và khuyến khích việc phát hiện và ngăn ngừa tham nhũng.

[2] Điều 15,16 Công ước UNCAC.

[3] Điều 21, Điều 22 Công ước UNCAC.

[4] Xem: ThS. Lưu Thanh Hùng (2018),” Tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực tư theo công ước UNCAC và vấn đề hoàn thiện BLHS Việt Nam”, tạp chí tòa án nhân dân điện tử, truy cập ngày 21/11/2024.

[5] Điều 21 Công ước UNCAC.

[6] Điều 19 Công ước UNCAC

[7] Điều 18 Công ước UNCAC 

[8] Điều 22 Công ước UNCAC

Tài liệu tham khảo:

1. Kế hoạch đẩy mạnh quan hệ thương mại và lao động giữa Hoa Kỳ và Việt Nam nhằm triển khai TPP.

 2. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 (United Nations Convention against Corruption).

3. Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương năm 2018.

4. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu- EU năm 2016

5. ThS. Lưu Thanh Hùng (2018), “Tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực tư theo Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/toi-pham-tham-nhung-trong-linh-vuc-tu-theo-cong-uoc-uncac-va-van-de-hoan-thien-blhs-viet-nam.

 

Vũ Thị Phượng- Tạp chí kiểm sát số 04-2025

Thanh Hải
image advertisement

image advertisement

image advertisement
   
image advertisement
 

image advertisement

 

image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1