image banner
THÔNG BÁO RÚT KINH NGHIỆM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Thông qua công tác theo dõi, kiểm sát Bản án hình sự sơ thẩm cấp huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang nhận thấy cần trao đổi, rút kinh nghiệm như sau:

1.Vi phạm về xác định tư cách tham gia tố tụng

Vụ án: Trần Thị T và đồng phạm bị TAND huyện H xét xử về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS.

Nội dung vụ án thể hiện: Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 18/3/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện H bắt quả tang Phàn Sành P, Triệu Tà S,  Nguyễn Huy Q có hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh liêng, thu giữ trên chiếu bạc số tiền 210.000 đồng và 52 quân bài lơ khơ. Quá trình đấu tranh Phú khai nhận:chiều ngày 15/3/2023 Phú còn có hành vi mua số lô, số đề với Trần Thị T với số tiền 1.350.000 đồng; P trúng lô với số tiền 4.000.000 đồng. Tổng số tiền P đánh bạc với T là 5.350.000 đồng.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm: 

Bản án xác định anh Nguyễn Huy Q, anh TriệuTà S là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chưa chính xác. Căn cứ Điều 65 BLTTHS thì anh Q, anh S chỉ là người bị bắt quả tang về hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh liêng với số tiền 210.000 đồng, hành vi này đã được Công an huyện H ra quyết định xử lý vi phạm hành chính. Bản thân anh Q, anh S không liên quan đến việc đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề giữa bị cáo P và bị cáo T.

2. Vi phạm về nội dung của bản án tuyên người bị kết án phạt tù được hưởng án treo

Vụ án Lò Xín S, phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS.

Nội dung vụ án và quá trình tố tụng:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 19/6/2023, tại nhà bà Thào Thị M, sinh năm 1963; trú tại thôn K, xã N, huyện Q, do có mâu thuẫn nên Lò Xín S dùng 01 dao quắm dài khoảng 60cm chém 01 phát vào cổ tay phải của chị Lò Thị Ch. Hậu quả chị Lò Thị Ch bị thương tích 21% ở mu bàn tay phải.

Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HSST ngày 19/12/2023 của TAND huyện Q đã tuyên bị cáo Lò Xín S phạm tội Cố ý gây thương tích.

Hình phạt: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 BLHS. Xử phạt bị cáo Lò Xín S 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lò Xín S cho UBND thị trấn T, huyện Q có trách nhiệm giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Lò Xín S có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Ngoài ra bản án còn tuyên về dân sự, vật chứng và các vấn đề khác.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm:

Nội dung bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HSST thể hiện: Xử phạt bị cáo Lò Xín Sì36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phần quyết định của bản án thể hiện rõ tên và địa chỉ đầy đủ Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bị cáo Lò Xín S cư trú và được giao giám sát, giáo dục.Tuy nhiên, nội dung bản án không ghi rõ trường hợp bị cáo Lò Xín S thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự và hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định tại khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự vi phạm điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. 

3. Vi phạm về hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo bị xử phạt cải tạo không giam giữ

Bản án số 16/2023/HSST ngày 27/12/2023 của TAND huyện Y xét xử Cháng A N, Tẩn A T, Tẩn A K, Lý A B, Lý A Đ, Cháng A Ch về tội “Chống người thi hành công vụ”.

Hình phạt:

- Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Cháng A Nh 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 24/9/2023.

- Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 36 của Bộ luật Hình sự. 

Xử phạt các bị cáo Tẩn A Kh, Lý A B mỗi bị cáo 24 tháng cải tạo không giam giữ.

Xử phạt các bị cáo Tẩn A T, Lý A Đ, Cháng A Ch mỗi bị cáo 18 tháng cải tạo không giam giữ.

Thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan Thi hành án hình sự Công an huyện Y nhận được quyết định thi hành án. Giao các bị cáo Tẩn A Kh, Lý A B, Tẩn A T, Lý A Đ, Cháng A Ch cho UBND xã M, huyện Y để giám sát giáo dục; gia đình những người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với UBND xã M, huyện Y trong việc giám sát giáo dục các bị cáo. Trường hợp người chấp hành án vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 100 Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Miễn khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo.

Áp dụng Điều 123 của Bộ luật Tố tụng hình sự để Quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị cáo Tẩn A Kh, Lý A B, Tẩn A T, Lý A Đ, Cháng A Ch cho đến khi thi hành án.

Ngoài ra bản án còn tuyên những vấn đề khác.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm:

TAND huyện Y áp dụng Điều 123 của Bộ luật Tố tụng hình sự để quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị cáo Tẩn A Kh, Lý A B, Tẩn A T, Lý A Đ, Cháng A Ch cho đến khi thi hành án là chưa chính xác. Theo quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự thì mọi biện pháp ngăn chặn phải được hủy bỏ khi bị cáo được Tòa án tuyên hình phạt cải tạo không giam giữ. Do đó, TAND huyện Y phải hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị cáo Tẩn A Kh, Lý A B, Tẩn A T, Lý A Đ, Cháng A Ch.

4. Vi phạm khác

+Vi phạm khoản 1 Điều 262 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tòa án không ghi nhận vụ án được xét xử kín hay công khai: Bản án số 19/2023/HSST ngày 28/12/2023 của TAND huyện M xét xử Phan Văn Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. 

+ Vi phạm khi quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm không áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự: Bản án số 22/2023/HS-ST ngày 27/12/2023 của TAND huyện QB xét xử Đoàn Quang H, Đặng Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. 

+ Vi phạm Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tòa án tuyên thời hạn kháng cáo đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày tuyên án; thời hạn kháng cáo đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại dưới 18 tuổi có mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết là chưa chính xác. Có 02 bản án vi phạm, cụ thể:

Bản án số 53/2023/HSST ngày 28/12/2023 của TAND huyện V xét xử Hoàng Thế Th phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự.

Bản án số 17/2023/HS-ST ngày 28/12/2023 của TAND huyện X xét xử Thào Seo L phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a, d khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang trao đổi để Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố nghiên cứu, rút kinh nghiệm chung; tránh lặp lại những sai phạm tương tự, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự trong thời gian tới./.

 

Ngọc Minh - Phòng 7
image advertisement

image advertisement

image advertisement
   
image advertisement
 

image advertisement

 

image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1